Trang chủHoạt động ngànhGiáo dục sức khỏe

Ngộ độc rượu và cách xử trí

Khi uống phải rượu không đảm bảo chất lượng, có chứa độc tố hoặc uống rượu với số lượng lớn, trong thời gian ngắn,... có thể khiến người uống bị ngộ độc. Bài viết sau đây sẽ hướng dẫn cách xử trí khi gặp người ngộ độc rượu.

Rượu hấp thu như thế nào?

Sau khi uống, rượu được hấp thu ở tất cả các đoạn của ống tiêu hóa, nhưng chủ yếu là ở ruột non. Rượu hấp thu nhanh hay chậm phụ thuộc vào tình trạng thức ăn có trong dạ dày. Nếu dạ dày đầy thức ăn thì rượu được hấp thu chậm hơn khi dạ dày trống rỗng, do thức ăn làm cản trở sự hấp thu của rượu vào cơ thể. Các thức ăn chứa nhiều mỡ hoặc đạm sẽ làm rượu chậm hấp thu so với thức ăn chứa nhiều tinh bột. Nồng độ của rượu cũng ảnh hưởng đến sự hấp thu của rượu. Rượu được hấp thu nhanh nhất khi nồng độ của rượu là 10 đến 30 độ cồn. Khoảng 5% lượng rượu được thải trừ nguyên vẹn qua nước tiểu, mồ hôi và khí thở ra, 95% còn lại được chuyển hóa ở gan. Cứ sau 2 giờ thì nồng độ rượu trong máu giảm đi một nửa.

 Ảnh minh họa

Tác động của rượu đối với cơ thể

Đối với hệ thần kinh: Tác dụng của rượu phụ thuộc vào nồng độ trong máu. Nồng độ rượu thấp (50mg/100ml) có tác dụng an dịu và giải lo âu. Nồng độ rượu cao (150-200mg/100ml) gây mất điều hòa, mất ức chế, rối loạn hành vi. Nồng độ rượu quá cao (300-400mg/100ml) gây hôn mê, trên 400mg/100ml gây ức chế hô hấp và tử vong.

Đối với hệ tiêu hóa: Rượu nhẹ dưới 20 độ cồn có tác dụng làm tăng tiết dịch vị, tăng nhu động ruột, tăng khả năng hấp thu của niêm mạc ruột. Nồng độ rượu từ 40 độ cồn trở lên gây phá hủy lớp niêm mạc của dạ dày, ruột, gây co thắt dạ dày và gây nôn.

Đối với cơ trơn: Rượu liều nhỏ gây giãn cơ trơn, giãn mạch máu và tăng tưới máu, tăng thân nhiệt. Ngược lại, nồng độ rượu cao gây ức chế trung tâm vận mạch, gây co mạch và giảm thân nhiệt.

Biểu hiện của ngộ độc rượu

Tiêu chuẩn của ngộ độc rượu là bệnh nhân uống một lượng rượu lớn gây rối loạn hành vi. Người ta định lượng nồng độ rượu trong máu để xác định mức độ ngộ độc rượu. Người say rượu hay có rối loạn hành vi hoặc có các hành vi gây nguy hiểm cho bản thân và người xung quanh khi lái xe, điều khiển máy móc.

Với nồng độ rượu từ 80-100 mg rượu trong 100 ml máu được coi là ngộ độc rượu và không đủ năng lực để lái xe. Ngay ở nồng độ cồn trong máu rất thấp, chỉ 10-20mg rượu trong100ml máu đã gây thay đổi hành vi rõ ràng, vận động chậm chạp, giảm khả năng suy nghĩ.

Nồng độ cồn trong máu từ 100mg đến 200mg trong 100 ml máu gây rối loạn phối hợp động tác, giảm khả năng quyết định, nặng hơn có thể gây cảm xúc không ổn định và rối loạn định hướng trầm trọng.

Ở nồng độ cồn/máu là 200-300mg/100ml máu, bệnh nhân sẽ nói líu lưỡi. Nồng độ rượu cao hơn sẽ khiến bệnh nhân bị mất trí, nồng độ cồn/máu đạt đến 400mg/100ml sẽ bị ức chế hô hấp, hôn mê và tử vong. Nồng độ rượu trên 500mg/100ml máu thì gây tử vong cho hầu hết người bệnh. Tử vong do ngộ độc rượu chủ yếu là do ức chế trung khu hô hấp ở hành não, khiến cho bệnh nhân thở chậm, thông khí kém, dẫn đến thiếu oxy cho não và các cơ quan khác trong cơ thể.

 Ảnh minh họa

Ngoài ra, trong rượu còn nhiều tạp chất có thể gây ngộ độc cho bệnh nhân. Rượu nấu thủ công có chứa nhiều aldehyde, chất này gây đau đầu, chóng mặt, buồn nôn... khiến bệnh nhân dễ bị say rượu và làm ngộ độc rượu trầm trọng hơn.

Bên cạnh đó, người nấu rượu có thể sử dụng cồn công nghiệp để pha chế rượu nhằm giảm giá thành sản phẩm. Nhiều trường hợp người ta pha nhầm rượu metylic, gây ra ngộ độc và tử vong cho người uống.

Cách xử trí ngộ độc rượu

Nhanh chóng đưa người bệnh đến bệnh viện để được xử trí kịp thời. Đầu tiên, gây nôn cho bệnh nhân giúp đào thải lượng rượu còn trong đường tiêu hóa. Tuy nhiên, nếu thời gian đã xa lúc uống thì biện pháp này ít kết quả vì rượu đã được hấp thụ vào máu.

Trường hợp nồng độ rượu trong máu dưới 200mg/100ml máu, chỉ cần cố định bệnh nhân tại giường, cho uống nhiều nước (chè đường nóng). Sau vài giờ, bệnh nhân sẽ tự hồi phục.

Trường hợp nồng độ rượu từ 200-300mg/100ml máu, sau khi cố định bệnh nhân tại giường, cần truyền đường, tiêm vitamin B1, theo dõi nhịp thở, nhiệt độ, mạch, huyết áp. Không nên để bệnh nhân ngủ sâu (thường xuyên đánh thức bệnh nhân) để họ khỏi “quên thở”.

Trường hợp nồng độ rượu trong máu trên 300mg/100ml máu, ngoài xử lý như trên, bệnh nhân nên được đặt monitor theo dõi. Các trường hợp có biểu hiện suy hô hấp, bệnh nhân cần được đặt nội khí quản và thở máy.

Lan Uyển (t/h)

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi