Trang chủHoạt động ngànhGiáo dục sức khỏe

Khi nào cần mổ đẻ ?

Tỷ lệ sinh mổ có xu hướng gia tăng tại Việt Nam. Bên cạnh các trường hợp liên quan tới nguyên nhân y khoa, còn có rất nhiều trường hợp sinh mổ theo yêu cầu của thai phụ. Tuy nhiên, không nên lạm dụng mổ đẻ nếu không thực sự cần thiết.

1. Một số biến chứng có thể xảy ra khi mổ đẻ

- Đối với mẹ:

+ Biến cố do phẫu thuật như gây tổn thương các cơ quan lân cận (bàng quang, ruột), rò bàng quang - tử cung, rò bàng quang - âm đạo. Chảy máu do chạm phải động mạch tử cung, chảy máu do rách thêm đoạn dưới.

+ Nhiễm trùng: có thể bị nhiễm trùng vết mổ, tiết niệu, viêm phổi. Thường gặp là nhiễm trùng vết mổ, nhiễm trùng ối gây viêm phúc mạc có thể dẫn đến cắt tử cung trong thời gian hậu phẫu.

+ Dính ruột, tắc ruột. Tắc ống dẫn trứng gây vô sinh thứ phát.

+ Lạc nội mạc tử cung.

+ Sẹo trên thân tử cung có thể bị nứt trong những lần có thai sau (nứt khi chưa vào chuyển dạ hoặc khi đã vào chuyển dạ).

- Đối với bé:

+ Thai nhi có thể bị ảnh hưởng bởi thuốc mê;

+ Bị tổn thương trong khi phẫu thuật;

+ Hít phải nước ối;

+  Suy hô hấp cấp tính sơ sinh khi chưa có yếu tố chuyển dạ.

+ Chưa tiết ra các nội tiết tố sản xuất và phóng thích surfactant gây ra bệnh màng trong.

+ Không tái hấp thu dịch phổi qua hệ bạch huyết phổi nên có lượng dịch trong phổi cao.

2. Khi nào nên chọn phương pháp đẻ mổ?

Mổ lấy thai được chỉ định trong các trường hợp sau đây:

- Về phía sản phụ

+ Xương chậu hẹp, dị hình hoặc thai nhi quá lớn (trên 4.000gr), trong khi xương chậu quá nhỏ, bất tương ứng giữa thai nhi và khung chậu người mẹ.

+ Mang nhiều thai một lúc.

+ Tử cung có dấu hiệu vỡ, cơn co thắt tử cung yếu, khiến quá trình sinh sản kéo dài, mặc dù dùng nhiều biện pháp xử lí vẫn không có hiệu quả.

+ Xuất huyết nhiều trước khi sinh.

+ Thai phụ sinh lần 1 trên 35 tuổi.

+ Thai phụ mắc hội chứng cao huyết áp nặng và vừa, từng chữa trị mà không khỏi.

+ Thai phụ bị bệnh tim khi mang thai.

+ Có có tiền sử sản khoa nặng nề: thai chết lưu nhiều lần, thai chết lưu trước chuyển dạ, khó đẻ.

+ Có tiền sử về phẫu thuật: từng mổ tử cung, các vết khâu mổ phẫu thuật không tốt, sau khi mổ bị viêm nhiễm…

- Về phía thai nhi:

+ Thai nhi bị ngạt trong tử cung, suy thai, qua chữa trị mà vẫn vô hiệu.

+ Thai nhi trong bụng mẹ thiếu oxy.

+ Dây rốn bị đứt sớm.

+ Tim thai không tốt.

+ Chức năng của nhau thai giảm khiến thai nhi phát triển chậm trong tử cung, mang thai quá lâu mà chưa có dấu hiệu đau đẻ (trên 42 tuần).

+ Vị trí của thai nhi không đúng, ngôi thai bất thường như ngôi ngang, ngôi ngược, ngôi thai khác thường như nằm ngang, thế cằm sau ngôi đầu, không thể sinh ra thông qua âm đạo, ngôi mông lần sinh đầu…

- Một số trường hợp mổ lấy thai không có chỉ định trước

+ Quá trình chuyển dạ chậm và khó khăn hoặc bị ngừng hoàn toàn.

+ Bé có các dấu hiệu suy thai như nhịp tim thai quá nhanh hoặc chậm.

+ Bé có kích thước quá to, mẹ không thể sinh thường.

+ Các vấn đề liên quan tới nhau thai,  nhau tiền đạo, những nguyên nhân gây băng huyết cho sản phụ nếu sinh thường.

CN. Vũ Văn Trình (t/h)

 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi