Dị tật cơ xương khớp bẩm
sinh là các bất thường được hình thành trước khi sinh do nhiều nguyên
nhân. Khi không được phát hiện và có biện pháp can thiệp sớm và đúng cách,
những bất thường cơ xương khớp ở trẻ có thể gây giới hạn nghiêm trọng đến trẻ.
1. Vẹo cổ bẩm sinh
Vẹo cổ bẩm sinh là tình trạng phổ
biến ở trẻ từ 0-6 tháng tuổi. Nguyên nhân là do tình trạng u cơ hoặc xơ hoá cơ
ức đòn chũm, tư thế trong bào thai hoặc trong khi sinh dẫn tới hạn chế tầm vận
động cổ nghiêng và xoay ở trẻ. Nếu phát hiện tình trạng vẹo cổ sớm (dưới 2
tháng tuổi) và điều trị kịp thời, liên tục và đúng cách, khối u cơ sẽ mất dần, phục hồi tầm vận
động nghiêng và xoay cổ cho bệnh nhi. Nếu phát hiện trễ hay tập không liên tục,
các cơ sẽ dần bị xơ hoá và co rút phải phẫu thuật kéo dài cơ và kết hợp vật lý trị
liệu, phục hồi chức
năng.
2. Vẹo cột sống
Vẹo cột sống là tình trạng cong vẹo bất
thưởng ở xương cột sống. Đường cong cột sống lúc này sẽ giống như hình chữ
C hoặc chữ S trên mặt phẳng trán, thay vì hình dạng bình thường sinh lý dọc
theo trục thân. Tình trạng này thường xuất hiện tại cột sống ngực, đôi khi
ở cột sống thắt lưng hoặc kết hợp cả hai. Vẹo cột sống bẩm sinh có thể phát triển trước khi
trẻ chào đời. Nguyên nhân là do cấu trúc xương ở cột sống không hình thành đầy
đủ hay không hợp nhất với nhau.
3. Bàn chân bẹt
Ở bệnh nhi bàn chân bẹt, mặt lòng bàn chân thường bằng phẳng khi trẻ
đứng, không có độ lõm của vòm bàn chân. Tuy nhiên, một số trẻ thừa cân cũng có
thể làm nhiều phụ huynh nhầm lẫn bé mắc phải tình trạng này. Phần lớn trường
hợp mắc dị tật cơ xương khớp này sẽ tự hết khi trẻ lên 6 tuổi. Tất cả bàn
chân trẻ sơ sinh đều không có vòm bàn chân. Khi bé trong độ tuổi 2 - 3 tuổi, vòm
bàn chân được hình thành cùng với sự phát triển của hệ thống dây chằng. Người có hệ thống dây chằng quá
lỏng lẻo (bệnh lỏng lẻo đa khớp) thường dễ bị bàn chân bẹt.
4. Bàn chân khoèo bẩm sinh
Người bệnh có cả biến dạng về xương và về tổ chức mô mềm xung quanh xương. Tại vùng cổ bàn chân, xương sên
bị biến dạng và xương ghe bị di lệch vào trong, các phần tổ chức mềm kết nối
phần cơ với phần bám tận vào nền xương co rút ngắn so hơn bình thường. Tình
trạng này khiến bàn chân xoay quanh chỏm xương sên thành hình dạng giống cây
gậy đánh golf. Khi sờ nắn bàn chân khoèo sẽ có cảm giác cứng, ít linh hoạt.
5. Bàn chân áp sinh lý
Đây là tình trạng phần nửa bàn chân trước của người bệnh áp vào trong, nhất
là ngón chân cái do bị ảnh hưởng bởi tư thế trong bụng của thai phụ. Khi nằm
trong bụng mẹ, hai chân của thai nhi bắt chéo với nhau. Lúc này, hai bàn chân
sẽ được uốn vào trong để phù hợp với hình dạng cong tròn của tử cung và bụng
của thai phụ. Đây là tư thế
sinh lý hoàn toàn bình thường của thai nhi. Tuy nhiên, trong một số trường hợp,
trẻ sau khi sinh lại có hai bàn chân vẫn áp vào trong, được can thiệp sớm có thể trở về
tư thế bình thường.
6. Bàn chân xoay trong do cẳng
chân xoay trong
Đây là tình trạng bàn chân của bệnh nhi bị xoay vào trong. Lúc này, những
ngón chân của trẻ xoay theo hướng vào phía trong giữa hai bàn chân, thay vì ở
vị trí thẳng và hướng về phía trước như bình thường. Tình trạng này thường xuất hiện ở
cả hai bên chân. Bàn chân xoay trong thường tự điều chỉnh trong quá trình phát
triển của bé, chỉ có khoảng 1% không chỉnh sửa được mới cần phẫu thuật.
7. Loạn sản khớp háng (trật khớp
háng)
Đây là sự bất thường trong cấu tạo khớp háng. Chỏm xương đùi của người bệnh
không được giữ vững trong ổ khớp. Tình trạng thường là dị tật bẩm sinh hay do
quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ sai cách. Dị tật này nếu được phát hiện
trước 6 tháng tuổi, điều trị thường đơn giản, hiệu quả cao, không cần can thiệp
phẫu thuật.
8. Duỗi ưỡn khớp gối bẩm sinh
Duỗi ưỡn khớp gối bẩm sinh là tình trạng khớp gối ưỡn quá mức trong quá
trình phát triển của bệnh nhi. Ở trẻ em, tầm vận động của khớp gối bình thường
là có thể gấp tới 140° và quá duỗi đến 10°. Gối duỗi hơn 15° là tình trạng duỗi
hay ưỡn gối quá mức. Biến dạng này
có thể xuất hiện khi sinh. Phát hiện và điều trị sớm sẽ hạn chế được dị tật.
9. Chân vòng kiềng (chữ O), chân chữ X sinh lý
Đây là những biến dạng chân thường gặp ở trẻ. Chân vòng kiềng thường gặp ở
bệnh nhi 1-2 tuổi, còn chân chữ X biểu hiện rõ nhất ở các bé 3-4 tuổi. Nếu
người nhà thấy trẻ di chuyển khó khăn hoặc sau 3 tuổi thấy chân của bé vẫn chữ
O, hay sau 7 tuổi chân vẫn chữ X, cần đưa trẻ đi đến các cơ sở y tế để can thiệp.
10. Cứng đa khớp bẩm sinh (AMC) hay cứng đa khớp
Khi mắc các tình trạng này, người bệnh sẽ bị co rút nhiều khớp trong cơ
thể, yếu cơ và xơ hóa. Đây là hội chứng thần kinh cơ không tiến triển, thường
xuất hiện ngay sau khi sinh. Điều trị cứng đa khớp bẩm sinh chủ yếu là phục hồi
chức năng, vật lý trị liệu để tăng khả năng vận động cho các khớp, tăng sức cơ.
11. Liệt đám rối thần kinh cánh
tay ở trẻ sơ sinh
Tổn thương đám rối cánh tay khi lôi kéo trẻ trong quá trình đỡ sanh trẻ.
Kết quả phục hồi tùy theo mức độ tổn thương. Nhìn chung, khoảng 50% trẻ sẽ hồi phục
hoàn toàn trong năm đầu tiên. Các tiến bộ diễn ra mạnh mẽ nhất trong 3 tháng
đầu tiên. Các dấu hiệu tiên lượng nặng là xuất hiện hội chứng Horner, liệt hoàn
toàn đám rối cánh tay, không có dấu hiệu phục hồi sau tập luyện.